1. Đặt vấn đề
Chuyển đổi phương thức sản xuất từ chăn nuôi nông hộ, quy mô nhỏ sang chăn nuôi trang trại tập trung quy mô lớn đang trở thành một đòi hỏi cấp thiết phải chuyển đổi đối với ngành chăn nuôi nước ta. Trong đó, chăn nuôi gia súc nhai lại cũng dần chuyển sang phương thức sản xuất hàng hóa với quy mô từ hàng nghìn tới hàng chục nghìn con/trang trại. Điều này đòi hỏi một lượng thức ăn khổng lồ cần được cung cấp cho các trang trại hàng ngày, đặc biệt là thức ăn thô xơ. Các trang trại chăn nuôi gia súc nhai lại tập trung hiện nay đa dạng hóa các nguồn cung thức ăn thô xơ trong trang trại bằng cách tự sản xuất một phần thức ăn thô xơ và thu mua lại từ các nhà cung ứng bên ngoài trang trại. Tuy vậy, sản lượng và chất lượng thức ăn thô xơ phụ thuộc vào mùa vụ, thổ nhưỡng và thời gian thu cắt của từng khu vực địa lý khác nhau.
Sản xuất hoa quả hàng hóa để phục vụ xuất khẩu đang dần trở thành ngành hàng quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam nói chung và của ngành nông nghiệp nói riêng. Sản xuất và chế biến hoa quả xuất khẩu cũng tạo ra một lượng lớn các phụ phẩm. Các phụ phẩm này có giá trị dinh dưỡng tốt và đã được nhiều nghiên cứu chứng minh có khả năng sử dụng làm thức ăn cho gia súc nhai lại. Tuy nhiên, việc chế biến, bảo quản các phụ phẩm này ở quy mô lớn, để tạo thành hàng hóa cung cấp cho các trang trại chăn nuôi gia súc nhai lại tập trung là một thách thức không nhỏ, liên quan đến giá trị dinh dưỡng, hiệu quả chăn nuôi, quy trình chế biến bảo quản, logistic….
Bài viết này nhằm đánh giá khả năng sử dụng các phụ phẩm từ ngành chế biến chuối và dứa làm thức ăn cho gia súc nhai lại quy mô lớn, nhìn từ tiềm năng sản lượng và giá trị dinh dưỡng cho động vật nhai lại.
2. Nội dung
2.1. Phụ phẩm từ chế biến chuối
Năm 2022, Việt Nam có khoảng 154.000 ha đất trồng chuối, đạt năng suất 2,2 triệu tấn chuối quả /năm. Năm 2022, xuất khẩu chuối đạt 310,6 triệu USD, trở thành loại quả có giá trị xuất khẩu lớn thứ hai cả nước. Ngành sản xuất chuối tạo ra một lượng lớn phụ phẩm bao gồm thân lá chuối và quả chuối dưới tiêu chuẩn xuất khẩu. Lượng chuối quả bị loại ra từ quy trình sơ chế chiếm từ 20-40% tổng sản lượng quả chuối (Kramer 2014). Lá chuối và quả chuối có giá trị dinh dưỡng phù hợp với nhiều loài vật nuôi và đã được nghiên cứu sử dụng làm thức ăn cho các loài gia súc nhai lại.
Hình 1. Quy trình thu hoạch và chế biến chuối quả (Alzate Acevedo et al. 2021)
Lá chuối chứa khoảng 85% nước và 10-17% protein (tính theo VCK). Thân cây chuối chứa hầu hết nước (92-95%) và rất ít protein (3-4,5% DM). Hàm lượng chất xơ cao, NDF trong khoảng 50-70% DM và ADF khoảng 30-40% DM (Feedipedia, 2011). Trong lá chuối có chứa một lượng lớn polyphenol tổng số (lên đến 8% DM), chủ yếu ở trong lá, nhưng rất ít tannin cô đặc (condense tannin).
Lá chuối là nguồn thức ăn thô hữu ích ở nhiều nước nhiệt đới. Đặc biệt, nó có thể được sử dụng làm thức ăn khẩn cấp trong trường hợp hạn hán hoặc thiếu thức ăn. Thân và lá có thể được cho ăn riêng biệt hoặc trộn lẫn với nhau. Chúng có thể được cho ăn tươi hoặc phơi nắng, cắt nhỏ. Thân cây chuối dễ dàng ủ chua nếu được cắt nhỏ và trộn với nguồn carbohydrate dễ lên men như mật đường hoặc cám gạo. Thức ăn ủ chua có chất lượng tốt.
Chỉ riêng lá chuối không thể đáp ứng yêu cầu của động vật và phải được bổ sung nitơ và năng lượng, hoặc là một phần của chế độ ăn có các loại thức ăn và thức ăn gia súc khác.
Quả chuối chứa lượng lớn carbohydrate phi cấu trúc, chủ yếu là tinh bột và đường (85-93% VCK). Ở quả chuối xanh, tinh bột chiếm từ 65-75% VCK. Quả chuối có hàm lượng protein thô (3% VCK) và khoáng thấp (2-4% VCK). Trong quả chuối có chứa một lượng đáng kể tannin, có thể ảnh hưởng tới khả năng thu nhận thức ăn và tiêu hóa của vật nuôi.
Bảng 1. Thành phần dinh dưỡng của một số bộ phận của chuối (Kramer 2014)
Thành phần dinh dưỡng | Thân | Lá | Quả xanh |
Vật chất khô, % | 97 | 21.6 | 18.0 |
Chất hữu cơ tổng số, %VCK | 83.6 | 85.2 | 94.4 |
Protein thô, % VCK | 2.6 | 10.4 | 5.3 |
Béo thô, % VCK | 5.9 | – | – |
NDF, % VCK | 56.7 | 61.3 | 28.3 |
ADF, % VCK | 42.7 | 34.9 | 5.5 |
Lignin, %VCK | 7.2 | 12.4 | 2.2 |
Ash, % VCK | 16.4 | 10.8 | – |
Khả năng tiêu hóa và khả năng phân giải dạ cỏ
Có sự khác biệt đáng kể về khả năng phân hủy và khả năng tiêu hóa giữa lá chuối và thân cây. Không giống như các cây khác, tỷ lệ tiêu hóa của thân cao hơn (75%) so với lá (65%) và tỷ lệ tiêu hóa biểu kiến OM và DM tương tự như vậy. Nguyên nhân được cho là do thân cây chuối cứng lại nhờ sự giữ nước trong tế bào, chứ không phải do sự hiện diện của hàm lượng cao lignin trong thành tế bào. Hàm lượng tanin cao của lá cũng có thể giải thích cho khả năng tiêu hóa của chúng thấp hơn.
Bảng 2. Giá trị dinh dưỡng của phụ phẩm từ chuối đối với gia súc nhai lại
Giá trị dinh dưỡng cho GSNL | Lá chuối | Quả chuối | Vỏ quả chuối |
Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ, % | 74 | 82 | 69,3 |
Tỷ lệ tiêu hóa năng lượng, % | 70,4 | 77,8 | – |
Năng lượng tổng số cho GSNL, MJ/kg VCK | 12,4 | 13,3 | 9,1 |
Năng lượng tiêu hóa cho GSNL, MJ/kg VCK | 9,9 | 11,3 | – |
Tỷ lệ tiêu hóa Nitrogen, % | 54,7 | 85 | 22 |
Quả chuối được coi là nguồn cung cấp năng lượng tốt cho gia súc nhai lại. Giá trị năng lượng thuần (net energy) của quả chuối tương đương với hạt đại mạch. Tuy nhiên, do quả chuối nghèo protein, khoáng và xơ nên cần phối hợp khẩu phần cùng các loại thức ăn thô xơ giàu protein hoặc các nguồn thức ăn giàu protein khác.
Ủ chua lá chuối là thường được sử dụng để bảo quản và làm tăng tính ngon miệng của lá chuối.
Bảng 3. Ảnh hưởng của ủ chua tới giá trị dinh dưỡng của lá chuối
(Wang et al. 2016)
Thành phần dinh dưỡng | Lá tươi | Lá ủ chua (60 ngày) |
VCK, % Chất tươi | 9,77 | 9,25 |
Carbohydrate tan trong nước, % VCK | 7,8 | 1,68 |
Protein thô, % VCK | 2,8 | 5,25 |
NDF, %VCK | 35,3 | 51,4 |
ADF, %VCK | 16,4 | 15,7 |
Tanin tổng số, % VCK | 0,22 | 0,28 |
Tanin cô đặc, %VCK | 0,18 | 0,17 |
pH | 3,99 | |
NH3-N, %N tổng số | 14,5 | |
Lactic acid, % VCK | 4,4 | |
Acetic acid, %VCK | 1,1 | |
Propionic acid, % VCK | 0,08 | |
Butyric acid, % VCK | 0,04 |
Khả năng thu nhận thức ăn
Lượng thu nhận vật chất khô đối với thân cây chuối rất thấp (13 g DM/ngày/kg) thể trọng đối với bò Zebu, 6,6 g/con/ngày đối với dê), có thể do độ ẩm cao và hàm lượng protein thấp của chúng. Lượng DM đối với lá cao hơn (23 g DM/ngày/kg thể trọng ở bò Zebu, 13,6 g/ngày/kg đối với dê, 20 g DM/ngày/kg đối với cừu).
Sử dụng trong khẩu phần ăn của Gia súc
Đã có nhiều thí nghiệm kết luận về tác dụng tích cực của lá chuối khi được bổ sung đầy đủ hoặc được sử dụng trong chế độ ăn kiêng hoàn chỉnh.
Bò thịt
Việc bổ sung bột lá chuối lên đến 40% trong khẩu phần thức ăn thô xanh làm tăng khả năng tăng trọng và hiệu quả sử dụng thức ăn của bò và cừu Zebu ( Garcia và cộng sự, 1973 ).
Ở bê đang phát triển, hỗn hợp 40:60 giữa thân cây chuối và ngô ủ chua làm giảm chi phí thức ăn và tăng tỷ lệ tiêu hóa, nhưng lượng VCK thu nhận và trọng lượng cơ thể giảm ( Dormond et al., 2001 ). Ở Seychelles, bò Jersey tơ được cho ăn lá chuối cắt nhỏ và thân cây chuối có bổ sung urê / rỉ đường và lá keo dậu có tốc độ tăng trưởng 0,4 kg / ngày ( Preston và cộng sự, 1987 ). Tăng trọng lượng từ 0,5 đến 0,7 kg / ngày thu được trên những con chỉ đạo ăn ngọn chuối có bổ sung mật đường và urê ( Rowe và cộng sự, 1978). Ở Zanzibar, thức ăn thô xanh cho chuối có thể cung cấp khẩu phần duy trì trong mùa khô và tăng trưởng hợp lý ở động vật có chuồng khi kết hợp với các loại thức ăn khác ( Reynolds và cộng sự, 1983 ).
Bò thịt có khả năng sử dụng khẩu phần ăn có chứa từ 50-75% VCK quả chuối. Cho ăn 15kg quả chuối xanh/ngày đối với bò chăn thả làm tăng tốc độ tăng trọng lên 50% (0,4 -0,5 kg/ngày lên 0,6-0,7 kg/ngày). Quả chuối làm tăng tốc độc tăng trọng ở bò thịt nhưng giảm chi phí thức ăn trên bò.
Hình 2. Ảnh hưởng của tỷ lệ lá chuối trong khẩu phần đến khả năng thu nhận thức ăn của bò Zebu (Preston và Leng, 1987)
Tỷ lệ lá chuối, % khối lượng cơ thể
Bò sữa
Lá chuối tươi có thể được bao gồm tới 15% (DM trong khẩu phần ăn) trong khẩu phần của bò đang vắt sữa mà không làm thay đổi đáng kể sản lượng sữa, mặc dù năng suất và khả năng tiêu hóa của sữa giảm khi lá chuối tăng lên trong khẩu phần ( El-Ghani, 1999 ).
Ủ chua lá chuối với các thành phần khác có thể là một chiến lược có giá trị. Ngọn lá chuối và rơm lúa mì (75:25) ủ với mật đường và urê có thể thay thế 50% ngô xanh trong khẩu phần của bò Red Sindhi mà không làm thay đổi sản lượng sữa ( Baloch và cộng sự, 1988 ). Ngọn lá chuối ủ với phân gà thịt (40:60) và mật đường hoặc bột whey có thể cho ăn ở mức 15% (DM trong khẩu phần ăn) trong khẩu phần của trâu cho sữa và được chấp nhận tốt mà không ảnh hưởng xấu đến sản lượng sữa ( Khattab et al., 2000 ).
Quả chuối có thể thay thế các nguyên liệu cung cấp năng lượng trong khẩu phần ăn của bò sữa. Quả chuối có thể thay thế 50% các loại ngũ côcs trong khẩu phần ăn của nhóm bò tơ.
Đặng Hoàng Lâm, Nguyễn Thị Hà Phương
Viện Nghiên cứu ứng dụng và Phát triển
Trường Đại học Hùng Vương
Nguồn: https://nhachannuoi.vn/su-dung-phu-...phuc-vu-trang-trai-chan-nuoi-bo-tap-trung-p1/